Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU - ĐẶC ĐIỂM VỀ TÂM SINH LÝ

1.6. Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi 18 đến22.

Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện, để đạt hiệu quả tốt thì người giáo viên và HLV phải nắm chắc các đặc điểm về tâm, sinh lý của lứa tuổi; từ đó mà áp dụng các phương pháp và các phương tiện tập luyện sao cho phù hợp với trình độ, lứa tuổi, giới tính và trạng thái sức khoẻ; đó cũng là một trong các nhân tố quan trọng để tác động bài tập thể chất lên cơ thể con người. Nói đến bài tập thể chất là nói đến LVĐ, mà LVĐ bao gồm cường độ và khối lượng sẽ tác động trực tiếp lên cơ thể người tập. muốn có thành tích thì LVĐ là mấu chốt.

1.6.1 Đặc điểm về tâm lý:

Trong tâm lý học lứa tuổi, người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn.

Những đặc điểm tâm lý của hoạt động thanh niên lứa tuổi 18 - 22.

Tâm lý học Mác xít cho rằng cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách phức hợp, phải kết hợp quan điểm tâm lý xã hội học với việc tính đến những quy luật bên trong của sự phát triển; đó là vấn đề phức tạp và khó khăn. Bởi vì không phải lúc nào nhịp độ các giai đoạn phát triển của sự phát triển tâm lý cũng trùng hợp với các giai đoạn trưởng thành về mặt xã hội. Theo tác giả Phạm Ngọc Viễn: “ Sự bắt đầu trưởng thành của một con người như là một cá thể, một nhân cách, một chủ thể nhận thức và một chủ thể lao động là không trùng hợp nhau về thời gian” (80,27,44).

Xét về nội dung và tình cảm của hoạt động lứa tuổi này phức tạp hơn nhiều so với lứa tuổi thanh niên ở giai đoạn trước. Ở tuổi này không những đòi hỏi về mặt học tập mà còn đòi hỏi tính năng động, sáng tạo ở mực độ cao hơn nhiều; đồng thời cũng đòi hỏi muốn nắm được chương trình học tập một cách sâu sắc thì cần phát triển tư duy về lý luận. Khi tuổi càng trưởng thành thì kinh nghiệm sống càng phong phú, họ càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc đời. Do vậy, thái độ ý thức học tập của các em lứa tuuôỉ này phát triển cao. Các em được thúc đẩy bởi động cơ học tập và đã nhận thức được ý nghĩa xã hội của môn học, của nghề nghiệp mình lựa chọn, đó cũng là điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và huấn luyện.


  • Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Tri giác có mục đích đã dạt ở một mức độ cao; quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Ở lứa tuổi này ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ; đồng thời vai trò của ghi nhớ lôgíc, trừu tượng ngày một tăng rõ rệt, đặc biệt các em đã tạo được tâm thể trong ghi nhớ.Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển nên các em suy nghĩ chặt chẽ hơn, có căn cứ hơn và nhất quán hơn. Đây là cơ sở để hình thành thế giới quan.
  • Sự phát triển về ý thức: Sự phát triển về ý thức là đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của thanh niên trong giai đoạn này. Đặc điểm quan trọng là sự tự ý thức của lứa tuổi này, nó xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, hoạt động, địa vị xã hội, mối quan hệ với thế giới xung quanh buộc các em phải ý thức được nhân cách của mình. Các em không chỉ nhận thức được cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức được vị trí của mình trong xã hội tương lai. các em có được phẩm chất nhân cách bộc lộ rõ trong lao động, biết yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm, tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, ý chí cao, biết khắc phục những khó khăn đẻ đạt được mục đích mình đã định. Đây chính là đặc điểm thuận lợi để rèn luyện các tố chất thể lực. Không những các em biết đánh giá hành vi của mình mà còn biết đánh giá những phẩm chất, mạnh, yếu của người khác.
  • Sự hình thành thế giới quan: Ở lứa tuổi này đã có sự hình thành thế giới quan, hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử... Những điều đó được ý thức vào các hình thức tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi được xác định vào một hệ thống hoàn chỉnh (8,27,44).

1.6.2 Đặc điểm về sinh lý:



  • Hệ xương: Vẫn tiếp tục được cốt hoá mãi tới năm 24 - 25 tuổi mới hoàn thiện, các cơ tăng khối lượng và đạt 43 - 44% trọng lượng toàn thân. Sự cốt hoá bộ xương có nghĩa là đã chấm dứt sự phát triển chiều dài. Quá trình đó xảy ra do các màng xương được phát triển dày lên bao bọc quanh sụn.
  • Hệ thần kinh: Đựoc phát triển một cách hoàn thiện; khả năng tư duy, phân tích tổng hợp và trừu tượng hoá được phát triển thuận lợi tạo điều kiện tốt cho việc hình thành phản xạ có điều kiện. Ngoài ra do hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên, làm cho quá trình hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế. Giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng, ảnh hưởng đến hoạt động thể lực, cho nên phải sử dụng các bài tập sao cho phù hợp.
  • Hệ cơ: Riêng cơ bắp, cơ lớn phát triển nhanh (cơ đùi) và các cơ co phát triển sớm hơn cơ duỗi. Vì vậy, sử dụng các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền là hợp lý nhưng các bài tập phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và đảm bảo cho tất cả các loại cơ.
  • Hệ tuần hoàn: Đã phát triển hoàn thiện, mạch đập của nam vào khoảng 70 - 75 lần/phút và nữ khoảng 75 - 80 lần/phút. Sau vận động mạch và huyết áp hồi phục tương đối nhanh, cho nên phù hợp với, những bài tập có khối lượng cường độ tương đối lớn.
  • Hệ hô hấp: Đã hoàn thiện, vòng ngực trung bình của nam là 75 - 80cm và nữ là 80 - 85cm, diện tiếp xúc của phổi khoảng 120 - 150cm2, dung lượng phổi khoảng 4 - 5lít, tần số hô hấp 10 -20 lần/phút. Vì vậy tập các bài tập phát triển sức mạnh và sức mạnh tốc độ rất phù hợp với lứa tuổi này.
  • Nói tóm lại: Đây là giai đoạn thuận lợi nhất cho việc hoàn thiện các tố chất thể lực. Do sức mạnh cơ bắp và sức bền đã được phát triển rất lớn, khả năng phối hợp vận động tốt lên rõ rệt. Vì vậy, ở tuổi này có thể áp dụng tất cả các bài tập dùng sức mạnh và sức bền, tham gia tập luyện và thi đấu tất cả các môn thể thao rất tốt.
Vấn đề giáo dục sức bền ở lứa tuổi này đặc biệt thuận lợi vì khối lượng tim và mạch máu đều đã đến mức tiêu chuẩn, hoạt động của tim ổn định. hệ thần kinh phát triển đầy đủ. Hệ thống tín hiệu thứ hai đã đạt tới mức hoàn chỉnh, ngôn ngữ bên trong và bên ngoài rất phong phú. Trong khi hệ thần kinh phát triển đầy đủ thì cấu trúc nội tế bào của não lại trở nên phức tạp hơn nhiều so với thời kỳ trước, số các sợi thớ liên hiệp tăng lên, các quá trình hưng phấn và ức chế cũng như mối liên hệ giữa chúng được hoàn thiện. (9,19,20,34)

Tất cả những điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho ta áp dụng các phương tiện và phương pháp tập luyện để giáo dục các tố chất thể lực. Sự phát triển các tố chất thể lực theo lứa tuổi, quá trình hình thành và phát triển các tố chất thể lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự hình thành các kĩ năng vận động và mức độ phát triển của cơ quan và hệ cơ của cơ thể.

Sự phát triển các tố chất thể lực trong quá trình trưởng thành xảy ra không đồng đều, các tố chất đều có những giai đoạn phát triển với nhịp điệu nhanh và những giai đoạn phát triển tương đối chậm; ngoài ra sự phát triển các tố chất xảy ra không đồng bộ, mỗi tố chất phát triển theo một nhịp độ riêng vào những thời kỳ khác nhau và đạt đến mức phát triển cao ở những thời kỳ khác nhau. Ví dụ như tố chất tốc độ là một tố chất vận động được đặc trưng bởi thời gian tiềm tàng của phản ứng, tần số động tác và tốc độ của một động tác đơn lẻ. Trong hoạt động thể lực tố chất tốc độ thường biểu hiện một cách tổng hợp thời gian phản ứng có thể đo được 5 - 7 tuổi ( 0,30” - 0,40” ) và đến 13 - 14 tuổi đã đạt mức của người lớn (0,11” - 0,25” ). Tốc độ một động tác đơn lẻ cũng biến đổi rõ rệt, 16 - 17 tuổi lại hơi giảm xuống và 20 - 30 tuổi lại tăng lên. Nếu tập luyện thường xuyên và hệ thống thì tố chất tốc độ sẽ phát triển tốt (20,34).

Trong quá trình trưởng thành của cơ thể, tố chất sức mạnh biến đổi đáng kể trong các hoạt động tĩnh lực cũng như động lực. Sức mạnh tĩnh lực được đánh giá bằng thời gian duy trì một gắng sức tĩnh nào đó. Chỉ số này tăng dần theo lứa tuổi, mặc dù khác nhau giữa các nhóm cơ.

Sức mạnh động lực được đánh giá cao bằng khả năng hoạt động thể lực cụ thể qua các chỉ số hoạt động trên xe đạp lực kế 2700kgm/phút ở lứa tuổi trưởng thành.
Tóm lại: Từ những đặc điểm tâm sinh lý nói trên đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất về thể chất và tinh thần; là giai đoạn thuận lợi cho việc hình thành các kĩ năng, kĩ xảo và việc phát triển các tố chất thể lực cho lứa tuổi này. Các điều kiện thuận lợi về mặt sinh lý đó là sự phát triển hoàn thiện toàn bộ các hệ thống chức năng của cơ thể. Về mặt tâm lý, đặc điểm nổi bật là sự nhận thức được vai trò địa vị của mình trong xã hội, nhận thức được nghề nghiệp mình đã chọn. Từ đó các em có được sự nỗ lực rèn luyện ý chí, khắc phục khó khăn để đạt được mục đích của mình đã định; đây cũng là phẩm chất tâm lý quan trọng  trong giáo dục sức mạnh.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét